Những vướng mắc từ thực tiễn xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 của Quốc hội

Đóng góp bởi: thuaphatlaisadec 785 lượt xem Đăng ngày 23/07/2023 Chia sẻ:
Nghị quyết đã tháo gỡ nhiều vướng mắc trong xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD). Đó là khẳng định quyền thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) của TCTD và công ty mua bán tài sản của các TCTD (VAMC); cho phép mua bán nợ xấu và TSBĐ theo giá thị trường; cho phép Tòa án áp dụng thủ tục để giải quyết tranh chấp liên quan đến TSĐB; mở rộng đối tượng mua bán nợ xấu đối với VAMC; qui định về phương thức xử lý nợ xấu trong trường hợp TSBĐ là quyền sử dụng đất, bất động sản bị kê biên; quy định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý TSĐB; qui định nghĩa vụ thuế, phí khi chuyển nhượng TSBĐ và phương thức phân bổ lãi dự thu, khoản chênh lệch khi bán nợ xấu của TCTD và VAMC…v.v.
Bên cạnh đó, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN), Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao…được ban hành đã giúp Nghị quyết đi vào thực tiễn. Tiêu biểu là Chỉ thị số 32/CT-TTg ngày 19/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị số 06/CT-NHNN ngày 20/7/2017 của Thống đốc NHNN; Văn bản số 3022/TCTHADS-NV1 ngày 15/8/2017 của Tổng cục Thi hành án dân sự hướng dẫn một số nội dung liên quan đến triển khai Nghị quyết 42; văn bản số 609/NHNN -TTGSNH ngày 24/1/2018 của NHNN về việc tăng cường xử lý nợ xấu, nhằm đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện Nghị quyết 42; Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án Nhân dân tối cao (TANDTC) hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết tranh chấp về xử lý nợ xấu, TSBĐ của khoản nợ xấu tại TAND….v.v. Với những văn bản này, hành lang pháp lý về xử lý nợ xấu của Việt Nam đã có bước tiến lớn so với trước đây và đã tương đối hoàn thiện, tiến gần hơn với các quy định chung thường thấy tại các quốc gia có hệ thống pháp lý phát triển trên thế giới; phần nào đã thể hiện được nỗ lực vào cuộc của các cấp, ngành và địa phương. Đặc biệt, nhận thức, thiện chí của bên vay trong việc giải quyết nợ xấu đã được tăng lên, góp phần đáng kể vào kết quả xử lý nợ xấu.
Những kết quả xử lý nợ xấu thời gian qua là rất tích cực nhưng vẫn còn một số vướng mắc cần tiếp tục tháo gỡ để Nghị quyết 42 phát huy hiệu quả cao hơn, đó là:
Thứ nhất, đối với quyền thu giữ TSBĐ của TCTD.
Đây là nội dung được xem là một trong những đột phá của Nghị quyết 42, nhưng việc áp dụng trong thực tế lại không hề đơn giản. Theo Nghị quyết 42, quyền thu giữ TSBĐ đi kèm với điều kiện hồ sơ thế chấp phải có thỏa thuận về điều khoản thu giữ TSBĐ, trong khi đó tính đến thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực, nhiều hợp đồng thế chấp chưa có điều khoản này, vì vậy, các TCTD cần đàm phán với bên vay để điều chỉnh hợp đồng. Ngoài ra, ngay cả với những khoản vay đáp ứng được điều kiện này thì việc thực hiện quyền thu giữ TSBĐ của các TCTD vẫn cần đến sự hỗ trợ của cơ quan Công an các cấp. Tuy nhiên, đến nay Bộ Công an vẫn chưa có văn bản hướng dẫn về cơ chế, cách thức thực hiện cưỡng chế đối với các trường hợp bên bảo đảm chống đối, không hợp tác. Do đó, việc thu giữ TSBĐ thành công hay không hiện nay phụ thuộc khá nhiều vào thiện chí của bên vay (bên bảo đảm). Trên thực tế, phương thức thu giữ TSBÐ để xử lý nợ xấu chỉ thành công khi khách hàng hợp tác, hoặc trong một số trường hợp nhất định như khách hàng đã bỏ trốn khỏi địa phương mà TSBÐ không có tranh chấp, TSBÐ là đất trống… Khi khách hàng không hợp tác bàn giao TSBÐ, chống đối khi tiến hành thu giữ, TCTD vẫn phải khởi kiện khách hàng ra Tòa án để được quyền xử lý TSBÐ thông qua thi hành án do Nghị quyết 42 không quy định cơ quan có thẩm quyền cưỡng chế, yêu cầu buộc người đang chiếm hữu, sử dụng tài sản phải bàn giao tài sản như cơ quan thi hành án. Theo Nghị quyết 42, các TCTD thực hiện quyền thu giữ TSBÐ đi kèm với điều kiện trong hồ sơ thế chấp phải có thỏa thuận về điều khoản thu giữ TSBÐ. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo đảm được ký kết trước thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực đều không có điều khoản quy định trực tiếp nội dung này (vì tại thời điểm hợp đồng được ký kết thì Nghị định 163/2006/NÐ-CP không quy định nội dung này). Do đó, để đủ điều kiện áp dụng quyền thu giữ TSBÐ theo quy định trên, các TCTD phải đàm phán với bên vay điều chỉnh lại hợp đồng, nhưng khách hàng thường không hợp tác (không ký lại hợp đồng). Vì vậy, các TCTD rất khó để thực hiện việc thu giữ TSBÐ theo Ðiều 7 – Nghị quyết 42.
Ngoài ra, khi thu giữ đối với tài sản là nhà đất, trong nhà đất đó có các tài sản khác của người có nhà đất thế chấp hoặc của bên thứ ba (các đồ gia dụng, điện tử, quần áo, giường tủ…) mà họ không tự nguyện dời đi thì cơ chế, phương thức để xử lý đối với các tài sản này thế nào, gửi giữ ở đâu, nếu người có tài sản không hợp tác để nhận và di dời tài sản thì sẽ xử lý phát mại và xử lý tiền thu được như thế nào…Hoặc khi thu giữ đối với tài sản là nhà đất, trong nhà đất đó có những người không phải là người thế chấp (như bố mẹ, các con cái của người thế chấp) đang sinh sống thì cơ chế, phương thức để xử lý đối với những người này ra sao?
Thứ hai, việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn rất hạn chế.
Theo rà soát sơ bộ, đến nay vẫn chưa có vụ án nào được áp dụng trong thực tế theo hướng dẫn thủ tục rút gọn. Nguyên nhân trước hết là do sau gần một năm Nghị quyết 42 có hiệu lực, đến ngày 15/5/2018 Tòa án Nhân dân tối cao mới ban hành Nghị quyết số 03/2018/NQ-HĐTP (có hiệu lực từ ngày 01/7/2018) hướng dẫn áp dụng các quy định của Nghị quyết 42. Khi đã có hướng dẫn nêu trên, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của Tòa án lại khó khăn. Tiêu biểu như việc thực hiện quy định về xác nhận công nợ, tài liệu về nơi cư trú của người bị kiện (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan). Khi xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với TCTD để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện. Ngoài ra, Tòa án cấp dưới chưa mạnh dạn triển khai thực hiện thủ tục rút gọn vì chưa có “tiền lệ”, tâm lý “sợ sai sót” trong quá trình xét xử vẫn hiện hữu. Bên cạnh đó, việc áp dụng thủ tục xét xử rút gọn trong giải quyết tranh chấp liên quan đến TSBÐ tại tòa án cũng còn nhiều vướng mắc. Hiện Tòa án nhân dân tối cao đã có nghị quyết hướng dẫn thực hiện đối với trường hợp này. Tuy vậy, việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của tòa án rất khó khăn, chẳng hạn như việc thực hiện quy định về xác nhận công nợ, tài liệu về nơi cư trú của người bị kiện (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) do khi xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với TCTD để phối hợp xử lý, nên việc xác nhận này rất khó thực hiện. Ngoài ra, Nghị quyết 42 chỉ quy định áp dụng thủ tục rút gọn để giải quyết tranh chấp về nghĩa vụ giao TSBÐ, tranh chấp về quyền xử lý TSBÐ của khoản nợ xấu của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, mà chưa quy định được áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng của các TCTD với khách hàng vay.
Thứ ba, vướng mắc trong việc hoàn trả TSBĐ và thủ tục sang tên cho người mua TSBĐ. 
Ðiều 14 – Nghị quyết 42 mới chỉ quy định về việc hoàn trả TSBÐ là vật chứng trong vụ án hình sự cho các TCTD, mà chưa quy định về việc hoàn trả TSBÐ là tang vật của các vụ việc hành chính cho các TCTD. Trên thực tế xảy ra nhiều vụ việc TSBÐ là phương tiện vận tải bị cơ quan công an tịch thu, tạm giữ do là tang vật trong vụ việc vi phạm bị xử lý hành chính hoặc do vi phạm luật giao thông đường bộ. Các cơ quan nhà nước không hoàn trả các TSBÐ này cho TCTD do chưa có văn bản pháp luật quy định. Trong trường hợp này, cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính như xử lý bán đấu giá TSBÐ là tang vật của vụ án hành chính theo quyết định xử lý vi phạm hành chính, số tiền thu được từ việc xử lý tài sản này sẽ được sử dụng theo quy định của pháp luật mà không chuyển cho TCTD. Như vậy, việc xử lý TSBÐ là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính đã gây thiệt hại cho TCTD (TCTD bị mất TSBÐ). Trường hợp cơ quan nhà nước trả lại TSBÐ cho chủ tài sản – bên bảo đảm, sẽ làm kéo dài thời gian xử lý nợ của TCTD.
Theo quy định tại Nghị quyết 42, “Số tiền thu được từ xử lý TSBĐ của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý TSBĐ được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho TCTD… trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm…”. Tuy nhiên, thực tế triển khai lại không hề đơn giản. Khi chưa nộp đủ các loại thuế như thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế khác của người phải thi hành án… thì cơ quan thuế sẽ không chuyển thông báo nộp thuế cho Văn phòng Đăng ký đất đai. Hệ quả là TCTD không thực hiện được thủ tục sang tên cho người mua TSBĐ. TCTD thực hiện quyền thu giữ tài sản theo quy định tại Khoản 2, Ðiều 7 – Nghị quyết 42 khi bên bảo đảm không tự nguyện bàn giao TSBÐ theo yêu cầu của TCTD. Khi tiến hành thu giữ tài sản, chủ tài sản bất hợp tác, chống đối hoặc không có mặt theo thông báo và TCTD phải lập biên bản thu giữ TSBÐ có sự chứng kiến và ký biên bản của đại diện ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ TSBÐ theo đúng quy định tại Khoản 5, Ðiều 7 – Nghị quyết 42. Như vậy, về pháp lý, biên bản thu giữ TSBÐ có xác nhận của ủy ban nhân dân cấp xã có giá trị tương đương và có thể thay thế cho văn bản bàn giao tài sản thế chấp. Tuy nhiên, do Thông tư 24/2014/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa quy định thành phần hồ sơ đăng ký biến động quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất trong trường hợp TCTD thực hiện quyền thu giữ TSBÐ theo quy định tại Ðiều 7 – Nghị quyết 42 để xử lý tài sản thế chấp, nên nhiều văn phòng đăng ký đất đai không chấp nhận biên bản thu giữ TSBÐ và từ chối việc đăng ký biến động cho người mua tài sản thế chấp. Việc khó khăn trong sang tên tài sản khiến các cá nhân, tổ chức có nhu cầu không muốn mua tài sản do các TCTD thu giữ, phát mại theo Nghị quyết 42, dẫn đến làm chậm trễ quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD.
Thứ tư, vướng mắc trong chuyển nhượng dự án bất động sản. 
Việc xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản theo Điều 10 Nghị quyết 42 gặp vướng mắc do ngoài việc tuân thủ theo quy định của pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm, TCTD và bên nhận chuyển nhượng còn phải tuân thủ theo quy định của pháp luật về đầu tư. Điều này dẫn đến thực trạng là sau khi TCTD đưa tài sản bảo đảm là dự án bất động sản ra bán đấu giá công khai và xác định được người trúng đấu giá nhưng lại không thực hiện được thủ tục đăng ký cấp Giấy chứng nhận đầu tư cho người nhận chuyển nhượng, với lý do là chưa đáp ứng được tiêu chuẩn, năng lực theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền.
Hiện nay, tranh chấp tài sản đang là vấn đề phức tạp nhất, gây khó khăn nhất đối với các TCTD trong quá trình xử lý TSBÐ nếu không có quy định rõ ràng. Ðối với vấn đề này, tại Ðiểm d, Khoản 2, Ðiều 7 – Nghị quyết 42 quy định: “TSBÐ không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý, nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật”. Dù vậy, hiện chưa có hướng dẫn thế nào là tài sản đang tranh chấp, dẫn đến cách hiểu về tài sản tranh chấp giữa các cơ quan tố tụng tại nhiều nơi, nhiều cấp khác nhau, gây khó khăn cho các TCTD trong việc xác định TSBÐ nào đang tranh chấp khi xử lý TSBÐ theo Nghị quyết 42. Liên quan đến những nội dung trên, các TCTD đã nhiều lần có văn bản kiến nghị các cơ quan nhà nước xem xét tháo gỡ nhưng đến nay hầu như vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng. Vì vậy, mục tiêu giải quyết nhanh, dứt điểm nợ xấu tại các TCTD của Nghị quyết 42 chưa đạt được kết quả như mong đợi./.
Từ Minh Liên (Sở Tư pháp tỉnh Quảng Ninh)
Chia sẻ bài viết trên:

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Đăng ký tư vấn ngay